CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 30.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. PHẦN 3 : NHỮNG CUỘC LỮ HÀNH.( Tiếp ).
1.SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ LÝ THUYẾT TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.
2.NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.
-Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.
-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...
-Trị liệu bằng Trường Sinh học.
Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người..
2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc :
a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.
b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ".
3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí.
Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.
3.PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
4.TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai.
5.PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT :
Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.
Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ.
MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại :SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỶ LONG,KIẾP LONG,DU LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp khúc ít lần đi lên,xuống hoặc đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên nó làm cho mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều lần.
Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống,đoạn ẩn ,doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG.
Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG.
Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là ỨNG LONG.
Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần,khí trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG.
Long mạch hình thế hiểm ác,gấp rút,trùng điệp,nhưng không đối xứng chỉnh tề gọi là UỔNG LONG.
Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG.
Loại phân chi,chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG.
Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG.
Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG.
Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động gọi là BỆNH LONG.
Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG.
Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG.
Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như :
SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ ,nhường nhịn,thuận hòa.
SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỶ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cư,nghèo khổ.DU LONG thì con cháu hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương,tuyệt tự,không có người nối dõi Tông đường.
12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến người còn tại tiền,nên vì thế khi mai táng cho người chết,không thể không lựa chọn đất cắm Huyệt.
Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng,tư thế mà chia ra làm 9 RỒNG :
1/XUẤT DƯƠNG LONG.
2/SINH LONG.
3/GIÁNG LONG.
4/PHI LONG.
5/HỒI LONG.
6/NGỌA LONG.
7/ẨN LONG.
8/ÐẰNG LONG.
9/LĨNH QUẦN LONG.
Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán. Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần,tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."
Như vậy chúng ta thấy rằng , việc đầu tiên của một nhà Địa lý - Phong Thủy là phải " cân " được Phúc đức của Gia chủ mà hãy chọn Địa Huyệt cho tương xứng . Nói nôm na là nếu Phúc đức của dòng họ người ta mới như nguồn điện 110 v thì phải đặt vào Địa Huyệt có tầm cỡ 110v , nếu Thày tham hoặc thân chủ tham , chọn Địa Huyệt có năng lượng 220 v , thì lợi thành gia hại , có khi là tuyệt diệt cả dòng họ người ta . Thày thuốc lỡ tay khi mổ bất quá chỉ thiệt hại một mạng người . Thày Địa Lý vì chủ quan hay sơ xuất , thậm chí làm hại cả họ nhà người ta . Do vậy , cả Thày và Gia chủ phải hết sức cẩn thận từng ly từng lý , phải soi cho rõ ngọn nguồn hãy bắt tay vàp Phân Kim , Cắm Huyệt .
6.SƠ LƯỢC VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
Trong các cuộc chiến tranh ngày xưa , người ta rất chú trọng đến việc lập trận . Kể từ những cuộc chiến của thời Tam quốc với những cách Trận đồ Bát quái của Khổng minh Gia cát lượng đến những trận đồ của phương Tây như trong trận OATECLO của NAPOLEON . Như vậy , việc thực hiện Trận pháp là hoàn toàn có thật và đã đạt được những hiệu quả rất cao . Trận pháp là một môn nghiên cứu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự hàng ngàn năm nay . Tại Việt nam chúng ta cũng có cuốn sách : Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo về nghệ thuật quân sự, có lẽ chủ yếu là bày binh bố trận, nhưng đến nay đã bị thất lạc. Ông sưu tập binh pháp các nhà, làm thành bát quái cửu cung đồ, và đặt tên tác phẩm như vậy. Người ta chỉ còn biết được một ít nội dung tác phẩm này, qua lời đề tựa của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vẫn còn lưu giữ được.
Trong lời tựa của Trần Khánh Dư : " Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết.
Ngày xưa, Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem người đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập (Sách Tấn thư chép là Mã Long) nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.Cho nên trận nghĩa là "trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình (sách Thái bạch âm kinh nói về binh pháp), những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.
Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô (ám chỉ nhà Nguyên), phía nam uy hiếp Lâm Ấp (Chiêm Thành). "
Trích từ Đại Việt sử ký toàn thư:
" Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó. "Trong cổ thi của Trung quốc có bài BÁT TRẬN ĐỒ của ĐỖ PHỦ ca ngợi Khổng minh như sau :
Bát trận đồCông cái tam phân quốc
Danh thành Bát trận đồ
Giang lưu thạch bất chuyển
Di hận thất thôn Ngô
Dịch Nghĩa:
Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba
Nổi danh trận đồ Bát quái
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển
Để lại hận đă thất kế thôn tính Ngô
Dịch Thơ:
Bát Trận Đồ
Võ công trùm lợp thời Tam Quốc
Danh tiếng làm nên Bát trận đồ
Đá vẫn nằm trơ dòng nước chảy
Hận còn để măi lỡ thôn Ngô
Bản dịch của Trần Trọng San
Tam phân quốc công cao tột bực
Bát trận đồ danh nức muôn đời
Nước trôi đá vẫn không dời
Ngậm ngùi nỗi chẳng nghe lời đánh Ngô
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Chú thích:
-Bát trận đồ: do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành, ở huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây, nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Nghiện chỉ đường nên ra thoát được-Tam phân quốc: Khổng Minh chưa ra khỏi nhà đă biết thiên hạ thế chia làm ba, Thục Ngô Ngụy
-Thôn Ngô: Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn.
Các sách cổ của Trung quốc cũng có rất nhiều tác phẩm viết về cách lập trận như các cuốn : DƯƠNG ĐẨU NGU CƠ , THỦY KINH CHÚ , VŨ LƯỢC CHÍ , QUA KÍP ĐÀN BINH ...
Trong các loại hình thế trận , người ta nghiên cứu phát minh ra nhiều loại trận đồ với nhiều mục đích khác nhau : BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ , VIÊN TRẬN ĐỒ , PHƯƠNG TRẬN ĐỒ , TRỰC TRẬN ĐỒ , KHÚC TRẬN ĐỒ , NHUỆ TRẬN ĐỒ TRƯỜNG XÀ TRẬN ĐỒ .....
SỬ DỤNG TẬN ĐỒ BÁT QUÁI :
Người ta có thể dùng TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vào việc TRẤN YỂM một khu đất hay địa huyệt nào đó với hai mục đích ngược nhau : Làm cho khu vực đó tốt lên hay là triệt phá Long mạch của vùng đất hay Địa Huyệt đó . Đó là hai chiều tương sinh và tương khắc của Ngũ hành - Âm , Dương .
Việc xây dựng một TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vì mục đích gì đi chăng nữa , người Chủ trận phải hiểu tường tận cách bố trí Trận pháp . Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyệt kết ở đâu , hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong 72 Long Thấu Địa , Thiên Môn - Địa hộ ở đâu , Tính chất Âm - Dương ,Ngũ hành của Khí Huyệt như thế nào , người bố trí Trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long ( Phận biệt các loại Khí Hỏa Khanh , Không hư , Bảo Châu ) , phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân , Lộc , Mã , Quý , Tứ cát , Tam Kỳ , Bát Môn , an các Thiên Can , Địa Chi lên Bát Quái Đồ Hỗn Thiên . Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính Thái Ất , Độn Giáp .
Cũng trong thời gian này , dienbatn có duyên được các huynh Thiên Bảo và Thiên Nhiên Kỷ và các Huynh Đệ , Tỷ , Muội tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH Phú Nhuận cùng rất nhiều các cao thủ Huyền môn tham dự một cuộc hành hóa khai thông Huyệt Đạo . Xin chia sẻ cùng các bạn.NHỮNG CUỘC HÀNH HÓA KHAI THÔNG HUYỆT ĐẠO THỜI NAY.
Bài nay dienbatn đã đăng trên TUVILYSO.COM. Chép lại tặng các bạn. Thân ái.dienbatn.Chắc các bạn đã một lần từng nghe những câu chuyện Huyền thoại,hay những câu chuyện về các Thày Địa lý trên đường đi tìm LONG MẠCH -HUYỆT VỊ.Những câu chuyện rất thú vị của cô ANN NGUYEN trong Diễn đàn Thần bí.Ngoài ra ,các bạn nếu đi nhiều nơi cũng thấy nhiều sự kỳ lạ của môn Phong thủy,nhất là Âm trạch.Trong Lịch sử cũng còn ghi lại rất nhiều câu chuyện như sự tích CỘT TRỤ ĐỒNG của PHỤC BA TƯỚNG QUÂN với câu chú :TRỤ ĐỒNG CHIẾT -GIAO CHỈ DIỆT.Hoặc như những cái ẾM ở BÀI BÀI,mà một đệ tử của Phật Thầy TÂY AN là PHẠM THÁI CHUNG tục gọi là ông Đạo Lập,đã phát hiện ra được một hòn đá dùng làm Bùa ếm ở BÀI BÀI.Tấm đá đó bằng đá xanh,trên mặt có khắc dòng chữ Hán :HOÀNG THANH CÀN LONG NGŨ THẤT NIÊN,TRUNG THU ,CỐC ĐÁN.Câu trên tạm dịch nghĩa là :Triều Thanh -Càn long -Năm thứ 57 -Chôn vào tháng 8 âm lịch.Theo cuốn BÍ ẨN PHONG THỦY của ĐOÀN VĂN THÔNG -Từ thẻ đá ,người ta truy nguyên trong quá khứ Lịch sử,cho biết rằng :MẠC CỬU,và về sau là MẠC THIÊN TÍCH (dienbatn đã có dịp đi khảo sát Lăng mộ của dòng họ này và hiện nay con cháu đời thứ 8,9, đang sống tại TP.HỒ CHÍ MINH ),là những người Trung quốc rất rành về khoa Địa lý Phong thủy.Dòng họ này trấn nhậm tại vùng HÀ TIÊN .Hiện còn đền thờ rất đồ sộ gọi là Đền MẠC CỬU.Theo ĐOÀN VĂN THÔNG viết trong cuốn sách đã dẩn :"Người ta cho rằng Mạc Cửu sang miền Nam nước Việt,có mục đích để ếm trù Long mạch tại vùng núi Cấm,mà tấm đá phát hiện vừa nêu là bằng chứng ".Thực hư còn chưa biết nên dienbatn chưa dám khẳng định điều đó,nhưng tấm đá Ếm đó là có thực.Gần đây nhất,khi nạo vét sông TÔ LỊCH,người ta phát hiện ra được một đạo Bùa trấn yểm dưới dòng sông.Về việc này ,dienbatn có viết trong bài : HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH - PHÍA CỬA TÂY LA THÀNH.Ngoài ra còn rất nhiều ví dụ khác mà còn đang loan truyền trong dân gian.
Những hiện tượng đó thực chất như thế nào trong khoa Phong Thủy ?Hiện nay,thông thường người ta gán cho những hiện tượng đó là mê tín,dị đoan,là phản Khoa học.
Gần đây dienbatn có diễm phúc được tham dự một cuộc HÀNH HÓA GIẢI KHAI HUYỆT ĐẠO như vậy.dienbatn xin viết lại để các bạn có một cái nhìn khác hơn những gì các bạn đã nghĩ về hiện tượng này. Những gì mà dienbatn mắt thấy tai nghe là sự thực,các bạn có quyền tin hay không tin.Những công việc Hành hoá đó,có tác dụng thực tế hay không,xin để thời gian trả lời.dienbatn xin thay đổi tên của những người tham gia,xin các bạn thông cảm,những tên dùng trong bài chỉ là những tên trong Đạo.LINH TẠI NGÃ -BẤT LINH TẠI NGÃ.dienbatn không có trách nhiệm của việc tin hay không tin của các bạn và xin cũng được xếp vào những câu chuyện Huyền thoại.
"Trăm năm trong cõi người ta,
Mua vui cũng được một và trống canh "
PHẦN THỨ NHẤT :CẢO THƠM LẦN GIỞ TRƯỚC ĐÈN :
Ngày 16 tháng Giêng năm Ất hợi (Tức ngày 19/02/1935 ),trong lễ TAM NHẬT ĐÀN tại Tòa Thánh Cao đài -Tây ninh,có xuất hiện một cơ bút còn giữ được cho đến ngày hôm nay.dienbatn xin phép được trích đăng như sau :
"Cơ Trời thay đổi máy CÀN -KHÔN.
Đất dậy,đất tung xác thay hồn,
Tam Giáo giáng Trần quy Ngũ phái.
BÁT MÔN -ĐỒ TRẬN cõi thần hồn ".
Ngày kia tại xứ Việt nam,Trời lập BÁT ĐỒ TRẬN,có tám hướng :CÀN -KHẢM-CẤN -CHẤN -TỐN -LY -KHÔN -ĐOÀI.Hào quang chói giữa lừng Trời,thì Bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo đến phá trận,cho tiêu tan,giành làm Bá chủ.Trận BÁT MÔN của Thầy lập chính là :THIÊN MÔN TRẬN,Bá đạo vào bảng.Phong Thánh kỳ Ba đó con,thì Bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo vào phá trận đều bị tiêu diệt,hồn lên bảng Phong Thần tất cả.Như vậy thì Bá đạo không phá nổi trận của Thầy,thì mới tùng lịnh Thầy.
Ngày 17 tháng 1 năm Bính Ngọ -1966,các chưởng Giáo,chức sắc lại nhận được Cơ bút (Từ nay chúng ta gọi là Điển ),về BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN như sau :
"SƠ DẪN :Bát quái là gì ?Là bộ máy CÀN -KHÔN gồm có Ngũ hành ,phân ra tám hướng ,tạo thành tám cung :CÀN-KHẢM -CẤN-CHẤN-TỐN-LY-KHÔN-ĐOÀI,phối hợp với nhau,chế hóa lẫn nhau để vận chuyển CÀN -KHÔN,hóa sinh muôn loài vạn vật.Tất cả trong Vũ trụ,từ vô vi đến hữu hình,từ Tam Thiên Đại Thiên Thế giới,đến những vật nhỏ bé nhất Trần gian như một Nguyên tử,một lân hư,đều ở trong vòm Bát quái và chịu luật của Bát quái.Cho nên biết được Bát quái,dụng được Ngũ hành là điều động được Thiên cơ,thoát khỏi Luân hồi sanh tử.
Bộ máy ấy năng lực vô biên,mấu nhiệm vô tận,gọi trọn chữ là BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ.
Mạt hạ,tàn ngươn,Long hoa Khai điển,cuộc Thế điêu tàn,nên Thượng Đế truyền lập BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ tại Trần để cứu cánh những Nguyên căn,những kẻ hiền lành Phước đức.BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ tại Thế ,tuy hữu hình,nhưng vận chuyển theo pháp Vô vi,dùng Đạo pháp Siêu nhiên:"QUY TAM BỬU -THỐNG TAM TÀI ",tụ Ngũ Khí để chế biến,sử dụng.Ngũ hành tuân theo luật tương sinh,tương khắc,không chỉ vận chuyển với sức phàm mà đủ,mà còn có các vị Thiên Tiên hỗ trợ,nên rất chi là diệu diệu,huyền huyền,Tam Ngươn mới có một lần vậy.
Chính nhờ đó mới nhiếp thọ được Điển Tiên Thiên,chế ngự được Ngũ hành trược giả,để trước bảo vệ mình,sau cứu chúng sinh trong buổi Long hoa tận diệt.
Sau đó các vị Thánh ,Tiên,lần lượt từng vị giáng Cơ bút (Điển ),xuống cho biết như sau : "
BÁT bộ Kim cang ứng nhập đàn,
TIÊN ,Thần,Thánh,Phật hiện hào quang, ỨNG từ Pháp giới hòa Siêu điện,
TRIỆU thỉnh Tiên Thiên hội Đạo vàng.
VẠN chỉ như truyền phong sắc thượng,
THÁNH đề điệp hội tại Nam bang.
LÂM cơ phò trận THIÊN ĐỒ TRẬN,
NGỰ tứ siêu linh chuyển chánh tràng ".
(Các bạn chú ý mấy chữ đầu các câu thơ ).
Bát Tiên phó triệu,Vạn Thánh lâm đàn.Mừng chưởng Giáo cùng Trung tôn Huỳnh Đạo.Thừa Điệp sắc Kim cung,phóng tỏa Hào quang vạn trùng Xá lợi Kim thân,Siêu Thiên Đài truyền điệp chỉ.Thánh -Thần -Tiên Phật đại hỉ lâm cơ,truyền THIÊN ĐỒ THƠ trong thời Long hoa mạt hạ.Vậy trong hàng Trung tôn định tọa tâm hầu ngheThiên Thư chánh giáo của THƯỢNG TỔ ban truyền.Tiên Thiên đồng tá trợ,có VÂN TRUNG TỬ lâm đàn điều động Thiên Đồ.
(Phần này là Điển giáng của BÁT TIÊN,VẠN THÁNH lâm đàn chủ tọa THIÊN ĐỒ TRẬN giải khai Huyệt đạo ).Vị thứ hai lâm đàn giáng Điển là VÂN TRUNG TỬ.
VÂN tựu hào quang chiếu sắc hồng,
TRUNG đài võ lộ định Kim long. TỬ linh Vương đế khai môn lập.
NHẬP diệu huyền linh trước bệ rồng.
Bệ rồng thừa lệnh Thượng Quân lai ,
Triệu thỉnh Thần tiên ngự Bửu đài,Cấp cấp thời hư linh vô lộ,Kim triều điệp sắc nhập Thiên khai.
Bần đạo thừa điệp sắc Thượng tổ lâm đàn,cùng Tiên Thiên khán ngự nhập dự THIÊN ĐỒ.Vậy toàn tất Trung tôn định tịnh,hầu nghe phát lạc Thiên thơ.Trên có Thượng huyền chiếu diệu,Thượng Tổ ban ân,dưới có toàn tất Kim cang đồng lại hộ giá.
Truyền sắc lệnh :Như lai triệu thỉnh Thần Tiên,bên ngoài 50 dặm chẵn.Thừa điệp sắc Thượng quân,Kim cang chi vị,Yết Đế Thần minh tám muôn đồng thọ Điệp sắc.Địa võng,Thiên la Thần minh ứng triệu,thượng ngũ chuyển đại quang,hạ Lục huyền thông dẫn địa,cấp cấp như luật lệnh.
Vị thứ 3 giáng Đàn ban Điển như sau :
QUẢNG pháp truyền khai Chánh Đạo Thiên,
THÀNH tâm đắc lệnh hội nhân hiền, TỬ thứa điệp chỉ lâm lai khán,
GIÁNG hộ ĐỒ THƠ ý Đạo truyền.
Bần đạo QUẢNG THÀNH TỬ mừng chung.Được câu Tiên bàisắc điệp,thứa lệnh Thượng Tổ LIỄU NHẤT CHƠN NHÂN truyền ,triệu hồi khai đàn lâm thế.
LÂM thế Thiên đồ chuyển Đạo minh,
TRUNG tôn thọ pháp đại huyền linh.
THỜI lai cứu thế Trung ương nhập,
CHUYỂN tứ thông quang hộ Đạo Huỳnh.
Vậy Bần đạo vâng truyền THIÊN ĐỒ định lập,trấn vị CÀN Bát quái Tiên Thiên,triều phong hộ vệ.
Một vị khác lâm đàn,giáng Điển :
NGỌC điệp Thiên ân chiếu triệu hồi,
ĐẢNH lòa pháp giới thượng cao ngôi, CHƠN như hiện lập Phong Thần mạng,
NHƠN đức triều thăng Đế vị hồi.
Bần đạo NGỌC ĐẢNH CHƠN NHƠN chào mừng chung hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.Vui thay,cuộc thế vần xoay,Cơ Trời hiển lộ.Từ độ Tiểu phong Thần đến nay cũng gần Lục vạn niên dư.Thiên thư truyền tái lập.Bần Đạo còn phải khai đàn chuyển tứ huyền thông,vì nhận điệp sắc Kim Long câu Tiên Liễu nhất triệu đàn minh.Giờ linh ,cho nên bần đạo chuyển tứ nơi đây trấn KHẢM cung chi vị.
CÙ dậy Nam phương đúng hạn kỳ.
LƯU truyền pháp định sắc Kim Quy, TÔN hành Trung Đạo phong đài thọ,
GIÁNG triệu Câu Tiên chí huấn thùy.
Bần đạo CÙ LƯU TÔN chào mừng chung Trung Tôn Huỳnh đạo.Thừa Điệp sắc ân phong Thượng Tổ truyền ban cho,nên hiện hào quang tái nhập Trần gian.Từ khi Tiểu Phong Thần định vị,ngày nay đă qua cuộc Tuần hườn xây chuyển Bách tuế vi kỳ,nhưng cũng chẳng tránh được luật Huyền vi của Thiên công hoạch định.Vậy Bần đạo trấn CẤN cung chi vị .
THÁI bình định lập hội Minh châu,
ẤT giáp thảm thương họa Địa cầu, CHƠN Đạo Tam Thiên bình tục lụy,
NHƠN thừa lập vị hội chư hầu.
THÁI ẤT CHƠN NHƠN,Bần Đạo mừng chung.Thừa Điệp sắc Câu Tiên Liễu Nhất Chơn nhơn.Bần đạo lâm đàn giờ này có đôi lời chung trong hàng Trung Tôn Huỳnh đạo,ráng rèn công lập quả,tạo lấy THIÊN ĐỒ cứu vớt Kỳ ba,trong thời Long hoa mạt hạ.Vậy Bần đạo trấn CHẤN cung chi vị.
HUỲNH sắc Nam bang chiếu ánh hồng,
LONG môn khởi lập hiện Hoa Long,
CHƠN đài Thánh Chúa qui Tam Ngũ,
NHƠN đức hiền lương hội thọ phong.
CHƠN NHƠN mừng chung hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.Vừa thọ sắc Câu Tiễn Liễu Nhứt,cho nên Bần đạo lâm đàn hôm nay để có đôi lời chung cho hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.
Bần đạo hiện giờ ngán ngẩm thay cuộc Trần ai trong cơn sóng gió,thương Nhân loại,không nỡ nhìn ngó cảnh tàn hại của Ma Vương,nên Bần đạo chuyển tứ đường Trần trấn TỐN cung chi vị.
LỤC Giáp,Lục Đinh Đạo khởi truyền,
YỂM hòa mạt Trụ chỉ ân Thiên,
CHƠN thường Tam Ngũ phong lai triệu,
NHƠN hiện hào quang điểm vi cương.
LỤC YỂM CHƠN NHƠN ,Bần đạo mừng chung hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.Hiện nay cơ Trời đã báo hiệu,Vạn Quốc,Ngũ Châu sắp lâm vào cơn đại Khảo của Tiên Thiên.Lửa Trời sắp thiêu rụi,cảnh đất nọ chuyển lay,quay cuồng vì dục vọng của Nhân Tâm nên Nhân loài phải chịu họa tai điên đảo.Thiên đồ Thơ sắp truyền trong cơ Đạo,một ngày,một bữa,một khắc,một giây,nếu trọn lòng tinh tấn thường hành,sẽ là cơ cứu nguy cho Nhân loại.Vậy Bần đạo trấn LY cung chi vị.
TỪ bi đạo đức hội Nam phương,
HÀNG phục yêu ma sắc chỉ thường,
ĐẠO thị huyền thâm vô chỉ giới,
NHƠN hành điểm hóa hội phong Vương.
Bần đạo thừa sắc điệp Thượng Quân lai ngự.Giờ lành chuyển tứ huyền thông cỡi Rồng hạ giới.Này các Nguyên căn Huỳnh đạo trong hàng Trung Tôn chi vị,phải suy nghĩ tận tường,đây là một con đường cứu an cho sanh chúng trong thời loạn lạc điêu nguy,chớ màng chi vì cảnh tục.Trên Tiên Thiên đã chỉ điều trong đục,mượn xác Thế của hiền nhân hầu chuyển tứ Đại Phong Thần định lập đời Long Hoa Thượng Thánh.Vậy tất cả Nguyên căn nên nghĩ,hầu đại lãnh lấy Lịnh văn,thọ kỳ Pháp gíới.Thiên Thơ định tới buổi Long Hoa phải kiềm Tâm,kiên chí mới đắc được Đạo pháp siêu thâm.THIÊN ĐỒ THƠ chẳng phải tầm thường mà là siêu mầu tuyệt giới.Vậy cố gắng trì Tâm,đừng mong đợi,dầu cho năm tháng cũng ráng luện rèn,cho đến ngày thành Đạo pháp.Bần đạo trấn KHÔN cung chi vị.
Cung cuối ĐOÀI giang rất nhiệm mầu,
VÂN TRUNG TỬ sắc lệnh tay thâu,
Bình Linh Đại yến tuân Thiên mạng,
Trấn vị ĐOÀI cung ý nhiệm mầu.
LIỄU NHẤT CHƠN NHƠN chào mừng chung Trung Tôn Huỳnh đạo.
LIỄU hiện kim quang hội sắc truyền,
HÒA thông pháp giới định Tâm yên,
BỔN như giác thệ quang như thọ,
ĐỊNH lập ĐỒ THƠ lý hóa huyền .
Huyền diệu LIỄU khai Đạo đức kinh,
Thọ đài NHỨT bổn thị huyền linh,
Bất như CHƠN thể vô tâm định,
Hữu đáo NHƠN hành bổn vị minh.
Hiện Thế KHAI quang hòa hội Thánh,
Lâm đàn PHÁP định ý Thiên sinh.
Chuyển như THIÊN Địa Phong Thần ký,
Bổn vị ĐỒ THƠ hội Đạo Huỳnh.
Bần đạo giờ lành thọ Điệp sắc ân ban của Thượng Tổ lâm đàn truyền cho Thần Tiên Thánh Phật hai hàng đồng triều nghinh nghe Điệp sắc:
BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ đã định đặt kỳ Đại biến nhân gian.....
....Hễ là người,phải lấy trí nuôi mầm yên tĩnh,chớ đừng yên tĩnh mà nuôi trí tục phàm nhân,đó là sai lầm vào Luân hồi ác trược.Còn thế Thiên đồ đại lược,lấy Đạo pháp siêu thâm cũng vậy.Lấy tĩnh chế động,lấy nên chế hư,lấy chơn chế huyển.Hể người được lựa tuyển vào Đại lược Thiên Đồ,phải hết sức điểm tô,đừng quên con đường mật Pháp vậy .Luôn Tâm cho tịnh,đừng xao xuyến điều chi,dầu phải gặp cảnh biến nguy cần kề bên thể xác,cũng đừng để cho Tâm linh rời rạc mà Thần Thánh khó hộ trì,Ma Vương ,ác quỷ cụng Pháp lực vô biên,Thần thông quảng đại,nhưng trí chẳng hiền,tâm chẳng tịnh,cho nên không nhập vào Chánh Đạo siêu quang..... ............
PHẦN HAI :MỘT VỊ SƯ TRÊN 40 NĂM GIỮ GÌN HUYỆT ĐẠO.
Vào khoảng giữa mùa khô năm 1960,nghĩa là cách đây 44 năm,có một nhà sư ,lúc đó mới có 36 tuổi,đang tu hành tại quê nhà An giang của mình,trong lúc đang Thiền định thì nhận được Ân Điển của Thượng Tổ giáng truyền,cử đi trông coi ,bảo vệ một Đại Huyệt của miền nam.Nhà sư vội vàng từ giã Sư cụ và các Tăng ni trong Chùa,khăn gói quả mướp lên đường.Lúc đó hành trang của nhà sư chỉ có vài bộ đồ với một con rựa sắc như nước.Trực chỉ Đông phương thẳng tới,chỉ ít ngày sau,vị Sư này đã đến chân một quả núi cao chất ngất,thuộc tỉnh Bà rịa -Vũng tầu ngày nay.Ngày ấy,khu vực này còn hoang sơ lắm,trên đỉnh núi mờ mịt mây bay,cây cối xanh rờn thành vệt,chim kêu,vượn hú,vẻ hoang sơ buồn đến nẫu lòng người.Nhà Sư lần mò từ sáng sớm đến tối mới tạm mở được con đường xuyên qua lau lách tới được lưng chừng núi.Ngồi trên phiến đá,nhà sư lần mở tay nải ra lấy nắm cơm muối mè đã khô cứng ra trệu trạo nhai và thỉnh thoảng đưa cơm bằng ngụm nước lấy dưới chân núi hồi sáng.Đốt một đống lửa,nhà sư giăng võng nằm và suy nghĩ mông lung.Vậy là kết thúc những ngày đi đường vất vả và giờ đây khởi đầu một cuộc sống mới đầy gian khổ ,khắc nghiệt.Là một con người,nhà Sư cũng rất ngán ngẩm trước khung cảnh Thiên nhiên quá hoang dã và khắc nghiệt nơi đây,chỉ có đức tin vào sứ mệnh thiêng liêng ,cao cả của mình trước Thượng Tổ,mới gạt bỏ ý định của mình là trèo ngay xuống núi,trở lại Chùa quê nhà.
Sáng hôm sau và những ngày tiếp theo,nhà Sư băng rừng,trèo khắp dẫy núi đó để xác định vị trí mình cần tìm.Gần một tháng trời dòng rã,đói ăn cây ,củ rừng,khát xuống tận chân núi lấy nước,nhà Sư đã tìm được vị trí mình cần tìm ở lưng chừng dẫy núi.Và cũng từ ngày đó ,nhà Sư dựng tạm một túp lều đơn sơ gần đó và thực sự bắt đầu cuộc sống của mình.Hàng ngày ngoài tứ thời Tý-Ngọ-Mão -Dậu phải ở trong lều tụng Kinh,niệm Phật,Trì,chú,nhà Sư vác dao vào rừng đốn củi ,đem xuống chợ chân núi đổi lấy Gạo,muối và những thứ cần dùng khác.Mỗi khi xuống núi,nhà sư lại đem theo cái can mủ loại 20 lít để thồ nước từ dưới chân núi lên để tắm giặt ăn uống.Chúng tôi được nghe đích thân Sư kể lại rằng :Lúc đó đang mùa khô,nước khan hiếm lắm,mang dược can nước lên,ngoài nấu cơm và uống,phải hạn chế sử dụng hết mức.Nước sau khi tắm,phải hứng lại để giặt quần áo.Rồi dần dần tháng năm cứ trôi đi,từ một chàng trai khỏe mạnh,đầy nhiệt huyết,nhà sư giờ đây đã trở thành một vị sư già trên 80 tuổi.Trong hơn bốn mươi năm qua,nhà sư có thể tự hào là không nhận tiền của cúng dường của các Phật tử hay khách hành hương mang tới cúng.dienbatn cũng được dân địa phương gần đó kể cho biết rằng :Mấy năm trước ,Sư còn cho dựng một cái bảng ngay đường đi lên Chùa và ghi trên đo câu :KHÔNG TIẾP KHÁCH VÀ NHẬN ĐỒ CÚNG LỄ.Trong hơn bốn mươi năm đó,bằng những gánh củi,những thứ trái cây hoa lợi thu được nhà Sư đã tự cất cho mình được một ngôi Chùa tuy rất đơn sơ,nhưng sạch sẽ,khang trang.Những năm gần đây Sư còn lập được hai đàn thờ có tượng của Bác Hồ ,quanh năm hương khói .Con đường ngày xưa chông gai hiểm hóc,đến nay xe 4 chỗ đã có thể đi được gần tới (Chỉ cách khoảng 1 Km ).Cách đây 9 năm,một vị Trưởng lão cũng theo Điển giáng ,tới gặp Sư.Sau một ngày trò chuyện,căn dặn,nhà Sư trao cho vị Trưởng lão đó một Sắc lệnh của THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN,và một lần nữa,vị Trưởng lão đó lại lên đường thực hiện nhiệm vụ của Thiên lệnh.
Đến đây chắc các bạn sẽ muốn hỏi dienbatn :Vị sư đó là ai và lên núi ở đâu -Làm gì.
Giờ này Sư đã ngoài 80 tuổi và nhiệm vụ thiêng liêng đã hoàn tất,người chuẩn bị về với Tổ tiên ,ông bà.Gần đây khi gặp dienbatn,sư đã già và yếu lắm rồi,nhưng sư rất vui và mãn nguyện vì đã hoàn tất nhiệm vụ.Sư nói :Thầy sắp đi xa rồi.Sư trao tặng cho dienbatn cuốn KINH NHẬT TỤNG với nhan đề :THIÊN ĐIỀU ĐẠI PHÁP -THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP QUY TÔNG.Nhìn dienbatn sư nói :Các con cố Tâm thực hiện Thánh Điển-Thầy sắp đi rồi.Nhìn nhà sư già dáng Hạc xương mai,nhưng hào khí tinh anh ngất Trời,trong lòng dienbatn tự như thấy hổ thẹn với bản thân mình. Những gì cần làm Sư đã làm xong,dienbatn xin phép tiết lộ cơ Thiên cho bạn đọc trả lời câu hỏi của mình từ đầu tới nay.NHÀ SƯ ĐÓ CÓ TÊN ĐẠO LÀ SƯ TÔNG -TRONG 44 NĂM QUA CÓ CÔNG GÌN GIỮ,BẢO VỆ ĐỈNH NÚI THÁI NHẤT HƯ VÔ TRÊN ĐÓ CÓ MỘT ĐẠI HUYỆT CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM TÊN LÀ KỲ PHONG HUYỆT HAY THÁI HƯ HUYỆT.
dienbatn xin mạo muội giải thích thêm để các bạn hiểu về Cơ bút hay thường gọi là ĐIỂN.Đó là những mệnh lệnh ,bài Kinh hay những việc cần truyền đạt của các đấng Chư Thiên truyền xuống ,những người có Thiên căn hoặc do tập luyện đều có thể tiếp nhận dễ dàng.Trong một số Chi Đạo,người ta có chỉ cách tập luyện để có thể tiếp Điển.Những người tiếp được Điển thường gọi là Đổng tử.Cách tập luyện để có thể tiếp Điển là thường tự ngồi Thiền và điều khiển cho vòng Nhị Thiên,Tam Thiên di chuyển.Cụ thể,ví như vòng Nhị Thiên,đầu tiên quán tưởng cho hơi thở (gọi là Minh châu )nơi Huyệt Huê quang.Bắt đầu hít vô chuyển cho Minh châu lên Thượng đài,chạy vòng xuống Huyệt Ngọc chẩm rồi xuống Huyệt Giáp tích.Ngưng lại nơi đây,nuốt tân dịch từ từ cho rơi xuống Hạ điền (Rốn ),nằm nơi đó,rồi bắt đầu chuyển từ Huyệt Giáp tích xuống Huyệt Vĩ lư,tới Huyệt Trường cường,sau đó tách ra làm hai bên và đi vòng xuống hai chân,ngưng nơi hai ngón chân cái rồi thở nhẹ ra(Quán tưởng đưa tất cả trược trần xuất ra ngoài 2 ngón chân cái.).Tiếp tục hít hơi vô,cảm thấy 2 làn Điển quang từ ngoài chạy vào 2 ngón chân cái(Cảm thấy mát lạnh ),chạy trở lên Huyệt Trường cường rồi đến Vĩ lư,lên nữa cho đến Giáp tích và ngưng lại đó,nuốt Tân dịch lần nữa đưa về Hạ điền,nằm lại đó.Bắt đầu chuyển tiếp từ Giáp tích ra hai tay ,chạy đến 2 ngón tay cái thì ngưng lại và thở nhẹ ra (Ý tưởng đưa tất cả trần trược xuất ra ngoài ngón tay cái ).Sau đó lại bắt đầu hít vô,cảm thấy có hai lằn Điển chạy vào từ 2 ngón tay đến Giáp tích rồi lên Huyệt Ngọc chẩm,đến Thượng đài rồi trở lại Huê quang.Như vậy là đã đi hết một vòng Châu thiên -Hành như vậy mỗi lần 36 vòng.
Việc tiếp Điển ngoài sự tập luyện chuyên cần ra còn phải có cơ Duyên vì có nhiều người tu luyện cả đời cũng không tiếp Điển được vì trong người còn nhiều trần trược.Khi đã tiếp được Điển rồi,thường khi ngồi Thiền sẽ tiếp được Điển của chư Thiên ban truyền.Có điều lạ là có những người chỉ tiếp Điển được bằng lời văn,lại có những người tiếp được Điển toàn bằng thơ hay những điệu Tân cổ...Mặc dù có người cả đời chưa làm được một câu Lục bát cho đúng Niêm luật,nhưng khi tiếp điển,có khi viết ra một lúc hàng trăm câu thơ rất đúng vần điệu (Như các bạn đã có dịp đọc ở phần trên ).Giáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG cũng đã lý giải vấn đề này trong cuốn "TÍCH HỢP ĐA VĂN HÓA ĐÔNG TÂY -CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC ) - Các bạn có thể tham khảo thêm để hiểu rõ điều này.
Xin theo dõi tiếp bài 32. dienbatn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét