Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

Published tháng 11 01, 2017 by ana03 with 0 comment

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 20.

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 20.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
2/LUYỆN NGẢI KHỘ .
“Đến một thời gian nào đó đã đủ thì pháp sư chọn ngày thâu ngải, cũng nhang, đèn, trứng, nổ... Khấn vái đợi khi tàn nhang thì đào gốc lấy củ đem vô nhà, việc đầu tiên sau khi rửa sạch là pháp sư phải cắn một củ nhai liền, có như vậy thì ngải mới mến và phục tùng thầy lâu dài...! Sau khi để lên dĩa đặt ngay bàn thờ binh, tướng đối diện bàn tổ (Bàn binh thấp, bàn tổ phải cao hơn). Pháp sư bắt đầu đọc chú kêu ngải ở với mình. Các loài ngải rất linh, tính ý ngải như các cô gái e dè, dịu dàng nhưng dấu kín những phong ba. Khi luyện các thầy phải vuốt ve, thủ thỉ, nói chuyện với ngải như nói với các cô tình nhân. Thế cho nên từ trước tới nay, các ngải sư cao tay, vang tiếng đều cô độc không vợ, không con vì nếu các nàng ngải biết thầy lấy vợ là hè nhau vật hoặc phá vợ thầy đau rề rề không hết, khó làm ăn lắm.
Thứ hai là luyện ngải khô là khi các thầy ngải khám phá ra những bụi hay đám ngải hoang trong rừng mà củ đã già, hoặc ngải thầy trồng sau vườn lấy giống mà chưa luyện trong chậu kịp thì cũng lấy củ, rửa sạch, rồi để lên dĩa đặt trên bàn binh, tướng, nhưng thầy phải chiều chiều cúng vái, niệm chú "sên" vô dĩa ngải đó như cách luyện ngải chậu vậy. Thời gian có thể là 360, 100, 72, 36 hay ít nhất là 21 ngày mới đủ linh nghiệm.
Tôi trình bày cách luyện cây ngải, củ ngải để mọi người tham khảo:
Trước hết người luyện ngải phải lập đàn để luyện. Gần chỗ luyện phải dán lá phù trấn thiên để luyện ngải:
Đề phòng những chuyện bất trắc xảy ra trong thời gian luyện ngải.
Đàn luyện ngải thường là một chiếc bàn vuông, cao khoảng 60cm đến 80cm, trên bài để lư hương, tùy theo số lượng chậu ngải mà đặt số lư hương tương ứng. Thực cúng gồm có: trứng gà, gà đã làm sạch lông (có đầy đủ lòng mề) để sống, một bát huyết gà, một bát huyết lợn (heo), một đĩa đựng năm loại đậu, một đĩa đựng gạo, muối, chè thái nguyên, năm ly: gồm 2 ly nước, 1 ly rượu và hai ly nước chè, trên đàn có hai bình bông (hoa) hai bên, có 7 hay 9 bông tùy theo người lập đàn là nam hay nữ. Hai bên bàn để mỗi bên 3 ngọn đèn cầy, hàng ngày thắp hương hai lần vào giờ mão, giờ dậu, mỗi lư hương chỉ thắp 1 đến 3 nén. Mỗi khi thắp hương thì khấn: “lạy 36 nàng tổ Ngải, lạy 36 ông tổ Lỗ ban, lạy tổ Chà, tổ Miên, tổ Mọi, tổ Lèo. Lạy các Cô ở chốn hang cùng, hang hẹp, lạy các Cô ở núi thẳm non ngàn, lạy cô ở rừng, ở rú, lậy cô ở cồn cát chơ vơ, lậy Ông ngài, Bà ngài, Ông Xà, Bà Xà, Ông linh, Bà linh ứng hiện chứng minh, lạy các Cô ở mười phương, lạy các Ông ở tám hướng, về đây mà thi thực do đệ tử (tên:.., tuổi:...) giúp đệ tử tu luyện thần thông. Lạy các Cô quanh quẩn đâu đây, nghe lời đệ tử trần gian, Cô về thi thực đệ tử dâng lên bạn bè cùng hưởng, các Cô mau về”. Sau khi đọc xong thì cắm hương vào chậu ngải (mỗi chậu cắm từ 1 đến 3 nén hương). Duy trì đàn pháp trong 49 ngày là xong.
Luyện củ ngải: cũng phải lập đàn để luyện, đàn luyện củ ngải thì đơn giản hơn. Bàn luyện cũng là bàn vuông cao khoảng 40cm ngang tầm mặt khi người ngồi luyện. Trên bàn đặt 1 lư hương, 1 bình bông (hoa), 7 đến 9 bông tùy theo người luyện là nam hay nữ, 3 ngọn đèn cầy. Đồ thực cũng gồm: 3 quả chứng gà, 1 đĩa gạo muối, chè (chè Thái Nguyên), 1 đĩa đựng 5 loại đậu, 1 đĩa đựng bỏng ngô hay bỏng gạo nếp, 1 ly nước, 3 ly rượu trắng.
Củ ngải trước khi đem luyện được rửa rượu, chè cho sạch trong 3 đêm, sau đó đem phơi 3 nắng, 3 sương, rồi mới đem luyện. Đĩa củ ngải được đặt trên bàn, trước đĩa củ ngải đặt hai ngọn đèn cầy.

 Mỗi ngày vào giờ Dậu thì người luyện sẽ thắp từ 1 đến 3 nén hương, vào lư hương và đĩa củ ngải. Mỗi khi thắp nhang thì khấn niệm chú hội ngải 3 lần: “ Án thầy rừng đại tướng, thầy rừng phi tà án bộ, hỡi chúng quỷ tà tinh, âm binh rừng đâu sao ta chưa thấy tới, ở ma ru ven rừng ba chu, thời thừa chi quy lục, phất tức phất xạ lu cha tha, năm tờ rây hào rây huê kiểm ràng ràng thâm thâm á rặc. ở ... ma ru ma ru” (3 lần).
“nam mô tam vị tam vị thánh tổ, 36 mẹ tổ ngải, 12 nàng ngải, 12 mụ ngải, mẹ Lục, mẹ Lèo, chú Cậu các đảng nhang vàng, thần ngải, lộc ngải, ma ngải, ma lai ngải, thiên linh ngải, thâm thanh, hồng hạnh, nhâm sư chúa tướng, đuôi mọi rợ, đợ rồng. Cảm ứng chứng minh cho... tên.. tuổi...”(cần việc gì nói ra) (3 lần).
Sau đó chú nguyện van vái tên tuổi người luyện, ngày giờ tháng năm, tôi muốn luyện loại củ ngải này dùng vào việc gì... sau khi tác bạch xong thì định thần bắt ấn niệm chú sên vào đĩa củ ngải. Duy trì 49 ngày liên tục thì xong đàn pháp. Những củ ngải sau khi luyện xong thì có thể phơi khô xay nhỏ để dùng dần.
Ngải đã luyện khô rồi được xử dụng các cách như sau:
Khi có thân chủ nhờ việc gì đó, thầy pháp hỏi tuổi, tên họ đương sự. Sau đó nhang đèn triệu thỉnh rồi cắt vài lát ngải khô hoặc cho nguyên cả củ nhỏ, gói trong giấy cấp cho thân chủ. Cũng có khi tùy việc mà "sên" thêm một vài lát cho ngậm vào miệng. Khi đi ăn nói như lúc ra tòa, đi đòi nợ hoặc mượn tiền. Còn có thân chủ làm những nghề như buôn bán địa ốc, bán Bar hay là "Chị Em Ta" cần sự thương mến, chiếu cố của khách hàng thì thầy pháp bảo mang đến một chai dầu thơm, bỏ ngải vào đó. Chú nguyện tên tuổi, mục đích cầu gì, v.v... Kêu ngải theo trợ giúp người nầy... Đương sự sau đó khi dùng chỉ cần mỗi ngày khấn 36 mẹ tổ ngải và xức dầu đó xung quanh miệng: Nói người ta nghe. Xức hai chân mày nhìn người ta mến. Xoa vào hai tay, khi bắt tay, vỗ vai, vuốt ve, đụng chạm, thì người ta thương. Chuyện khó hóa dễ!
Thật ra việc xử dụng Ngải giống như xử dụng Bùa, không có chuyện phải chuộc, phải thỉnh để xài hoài, nếu không sẽ bị điên khùng như nhiều người nghỉ. Đó chỉ là lòng vụ lợi của mấy thầy pháp muốn thân chủ trở lại hoài để cúng tiền, trả công cho ông mà thôi. Bởi thế nên nếu lâu mà thân chủ không đến thì thầy pháp làm phép trục (kêu đến). Thân chủ không an trong dạ, xuôi khiến chuyện nầy, chuyện kia và phải đến thầy thì mới trở lại được bình thường. Xét ra thì những vị thầy pháp nầy không đủ tư cách với thiên chức Pháp Sư và cũng không thấu đáo về luật nhân quả vậy.
Còn 1 cách bỏ Ngãi nữa là Thầy ngãi tom (làm phép) cho thân chủ 1 chai dầu ngãi , công dụng cũng để ăn nói , điều khiển bất cứ người nào mà đương sự ấy muốn , dầu ngãi ấy được chiết ra từ hủ dầu thơm lớn có bỏ 5 thứ ngãi khác nhau trong ấy , đốt 1 lá bùa yêu vào đó trong ngày khởi sự , niệm thần chú thổi vào nhiều ít là tùy ông Thầy , sau đó mỗi ngày Thầy cứ sên (thổi , luyện ) vào hủ dầu đó đều đặn , đúng 7 , 7.......49 ngày hay 108 ngày rồi thì Thầy xài cấp cho thân chủ , ai muốn thỉnh dầu ngãi thì đem chai dầu thơm riêng với mùi của mình thích đến , Thầy ngãi chỉ cần dùng ống chích hút vài giọt bên hủ dầu chính bơm qua chai dầu thơm của thân chủ và đến bàn thờ Tổ Ngãi vái tên họ tuổi người xin chuộc ngãi.....làm gì...v.v....thì chai dầu kia sẻ linh ứng cho tới giọt cuối cùng .  "( Sương Mãn Thiên ).

NẤU SÁP NGẢI
Thầy ngải phải nấu củ ngải nầy sên thần chú cột ngải lại với mình .Trước tiên thầy phải đi tìm 1 chốn gần nhà mình khuất lấp với tầm mắt những người tò mò .
Thầy cũng cần thêm 1 sư huynh đệ hay học trò trợ lực với mình trong chuyện nấu ngải .Dụng cụ nấu ngải gồm 1 cái nồi đất cũ nấu cơm đã từng khét 9 lần (đàn bà chửa nấu thì không xài được ),củi mọc rụng tại bờ nước về phía đông ,1 cục sáp ong to như nắm tay ,1 cây đèn cầy ,3 cái trứng gà ,nước dãi con gà trống tơ mới biết gáy ( quẹt trên cái lá chuối ),5 cái trui chứa cơm nếp ,có giắt bông dừa vô ( cái trui là lá cây cuốn lại như cái phểu ). Và tuyệt đối không được nấu ngải trong nhà ,trong khi nấu không để đàn bà con gái ngó thấy .Cũng không để ai kêu tên mình trong lúc nấu !
Thời gian nấu ngải là 3 ngày đêm ( khởi sự trước rằm 3 hôm , đêm rằm 16 là chấm dứt nấu ) .Chỗ nấu phải là gò cao mà cây che rậm rạp không để nắng chiếu vào .
Đầu tiên thầy bước 3 bước lấy chiều dài của cạnh nơi nấu ,rồi đóng 4 cậy cọc làm địa giới 4 phía .Cần phải có dây chỉ ngũ sắc cột vòng quanh 4 cây nầy như hàng rào vậy 
Củi chuẩn bị và nồi nấu để tại trung tâm. Khi người nấu bước vào sẽ theo hướng mặt trời lặn và trở ra hướng mặt trời mọc .
Băm nhỏ củ ngải bằng cật tre già ,cạo nhuyễn cục sáp ong và cây đèn cầy ,cho lòng trắng của 3 trứng gà vô ,hoà nước dãi gà trống … Tất cả để hết vô cái nồi đất ,5 cái trui để cúng phía trước nồi độ nửa thước .Khi ngồi nấu phải quay mặt về phía đông 
Khi nấu phải ngồi chồm hổm và không được nói chuyện ,không để lửa tắt ,phải niệm thần chú ngải liên tục !
Khi có người thay thế mình đi ra ,phải cầm củi đang cháy đưa tận tay rồi mới được đứng dậy đi . Sau 3 ngày đêm nấu liên tục, ngải và các chất sẽ cô lại như 1 loại sáp có mùi rất gợi dục !
Sau khi sáp đã thành công ,thầy sẽ vét sáp ra khỏi nồi cho vào các hộp nhỏ bằng gỗ màu đen hay nâu(gọi là cục măc muc) .Khi cho sáp vào phải đọc thần chú đóng nắp cũng đọc thần chú ,gọi là mặc cặp (tuyệt đối không cho sáp vào hộp vuông hay bằng kim loại ) sở dĩ như vậy là vì cái hộp có 2 miếng âm dương ghép lại .Miếng có gờ xoắn ốc vặn vào là miếng đực ,miếng chịu gờ khắn vô gọi là miếng cái .Hình như có loại gỗ đặc biệt riêng để làm loại hộp nầy.
Sáp cho vào hộp gỗ như vậy có thể giữ sự linh thiêng lại rất lâu ( có thể là 3 năm sau)…tối đa thầy chỉ tạo được 3 hộp cho mỗi lần nấu ,nhiều lắm là 5 hộp mà thôi ,không nhiều hơn .Vậy là sau mỗi lần nấu chỉ có 3 hay 5 người thỉnh sáp ngải dùng mà thôi .Thầy không được dùng ,tuy nhiên có thể cho bà con hay người nhà của thầy dùng hay bất kì ai muốn thỉnh !

Theo dõi tiếp bài 21. dienbatn.
      edit

0 nhận xét:

Đăng nhận xét